Could you post some photo?
I want to know more about Hai Bà Trưng.
Chồng của bà Trưng Trắc: Thi [Sách] (husband of the elder trung sister)
from: Lê Minh Khải
“Năm thứ 16, người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị làm phản, tấn công [đầu não của] quận. Trưng Trắc là con gái của một Lạc tướng ở huyện Mê Linh (Mê đọc là Mê, Linh đọc là Linh). Thị lấy Thi Sách ở Chu Diên làm vợ, rất khỏe mạnh và can đảm. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật để trừng phạt thị. Trắc phẫn nộ vì vậy nổi dậy. Sau đó, các tộc Man ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Bố đều hưởng ứng [lời kêu gọi của chúng] và chiếm 65 thành. Trắc tự xưng là vua”
至十六年,交阯女子徵側及其妹徵貳反,攻郡。徵側者,麊泠縣雒將之女也。(麊音莫支反,泠音零。) 嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。交阯太守蘇定以法繩之,側忿,故反。於是九眞、日南、合浦蠻里皆應之,凡略六十五城,自立為王.
Phiên bản thứ hai xuất hiện sau đó gần một thế kỉ (~515-524) trong cuốn
Thủy kinh chú (
Shuijing zhu 水經注)của Li Daoyuan (Lịch Đạo Nguyên), như sau:
“Sau con trai của một Lạc tướng ở Chu Diên có tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trắc rất can đảm. Thị lôi kéo Thi khởi loạn (chú: gần đây khắc sai “Thi” thành “thê”), tấn công [đầu não của] châu quận và chinh phục các Lạc tướng khác, họ đều tôn Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh”
後朱䳒雒將子名詩索麊冷雒將女名徵側為妻。側為人有膽勇,將詩起賊 (案近刻訛為妻),攻破州郡,服諸雒將,皆屬徵側為王,治麊泠縣.
Sự khác biệt đầu tiên mà chúng ta thấy ở đây là trong
Thủy kinh chú, tên của chồng Trưng Trắc là Thi chứ không phải Thi Sách. Điều này thực sự hữu lí hơn.
Ở thế kỉ XVIII có một học giả có tên là Zhao Yiqing đã chỉ ra vấn đề này trong một bản chú thích cuốn
Thủy kinh chú do ông thực hiện – cuốn
Thủy kinh chú thích (
Shuijing zhu shi 水經注釋).
Vấn đề liên quan đến chữ mà Phạm Việp hiểu là bộ phận của một cái tên, và Lịch Đạo Nguyên hiểu là một động từ có nghĩa là “tìm lấy”. Zhao Yiqing chú như sau:
“sách thê” (索妻) cũng giống như “thú phụ” (娶婦). Đoạn văn trong
Nam Man Tây Nam Di truyện nói “giá vi Chu Diên nhân thi sách thê” hoàn toàn nhầm lẫn” 一清按索妻猶言娶婦。範史南蠻西南夷傳云,嫁為朱鳶人詩索妻,亦謬之甚矣。嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。
Điều này là có lí, bởi câu văn trong
Hậu Hán thư là rối rắm (“Thị lấy Thi Sách ở Chu Diên làm vợ mình, rất khỏe mạnh và can đảm” – 嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇), đặc biệt là câu “lấy … làm vợ mình” 嫁為. . . 妻 và sự chuyển mạch giữa “thê” và từ tiếp theo “thậm” 甚 (rất).
Mặc khác, câu văn trong
Thủy kinh chú rất thuận “Sau con trai của một Lạc tướng ở Chu Diên có tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trắc rất can đảm” 後朱䳒雒將子名詩索麊冷雒將女名徵側為妻。側為人有膽勇.
Rồi ở đầu thế kỉ XX, Yang Shoujing và Xiong Huizhen đã làm một bản chú thích khác về cuốn
Thủy kinh chú – tức
Thủy kinh chú sớ (Shuijing zhu shu 水經注疏)
- trong đó họ chỉ ra rằng có một đoạn văn trong một cuốn loại thư thế kỉ X có tên
Thái Bình hoàn vũ kí (
Taiping huanyu ji 太平寰宇記) trong đó chứng minh rằng từ được dùng ở khu vực đồng bằng sông hồng (tức Giao Chỉ hoặc Giao Châu) với nghĩa là “tìm lấy (vợ).
Có một đoạn văn nói về phong tục ở Giao Châu, trong đó khẳng định rằng về người đàn ông tìm lấy vợ, trước khi anh ta lấy vợ, anh ta gửi đến một mâm cau. Khi cô gái ăn hết mâm cau đó thì họ trở thành vợ chồng” 索婦之人,未婚前,先送檳榔一盤,女食盡則成親.
Vậy là có vẻ như đối với tôi đã rõ ràng rằng đoạn văn nói về hai bà Trưng trong
Thủy kinh chú chính xác hơn ở điểm này. Tuy nhiên, thông tin được người Việt Nam ghi chép rốt cuộc lại theo
Hậu Hán thư của Phạm Việp. Các nguồn tư liệu của người Việt cũng theo
Hậu Hán thư theo những cách thức khác.
Tôi băn khoăn tại sao lại có chuyện đó? Có phải người ta không nhớ tên chồng bà Trưng Trắc?
Tôi đính kèm bài báo của Nguyễn Phương ở đây (
Nguyen Phuong on Trung sisters).